Một nửa trong số 10 mã chứng khoán có tỷ trọng đầu tư lớn nhất của Công ty Berkshire Hathaway là các ngân hàng. Với ngành nghề đặc thù này, yếu tố sinh lời chỉ được tỷ phú Warren Buffett cân nhắc tới sau khi xem xét kĩ về con người và rủi ro. Trong khi đó, tại Việt Nam, nhà đầu tư thường coi trọng yếu tố sinh lời và đầu tư theo phong trào, theo “sóng” ngành.
Ưu tiên ngân hàng “bảo thủ”
Ngành ngân hàng có rất nhiều quy định pháp lý ràng buộc chặt chẽ,
nhằm đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả, nhưng trên thực tế đã có một
số ngân hàng yếu kém bị kiểm soát đặc biệt để tái cơ cấu, hợp nhất với
các ngân hàng khác. Vì vậy, hạn chế rủi ro vẫn là ưu tiên hàng đầu trong
tất cả các thương vụ đầu tư nói chung, đầu tư vào ngân hàng nói riêng.
Với những người làm nghề ngân hàng, rất khó để vừa điều hành tốt một
ngân hàng song song với điều hành một doanh nghiệp khác và đồng nhất lợi
ích của cả hai tổ chức này. Thay vì tối đa hóa giá trị của cổ đông đặt
lên hàng đầu, thì những người làm nghề ngân hàng cần đặt chất lượng tài
sản lên trước và không cố gắng chạy theo lợi nhuận bằng mọi giá.
Về các chỉ tiêu thể hiện hiệu quả hoạt động của một ngân hàng, đầu
tiên có thể nhắc tới hệ số biên lợi nhuận ròng (Net Interest Margin -
NIM), được đo lường bằng thu nhập lãi thuần/tài sản có rủi ro.
Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) xét theo cơ cấu vẫn là một ngân hàng
truyền thống với nguồn thu chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập lãi từ hoạt
động cho vay, tiền gửi và giấy tờ có giá khác.
Tùy khẩu vị và chiến lược kinh doanh, các ngân hàng sẽ chọn đầu tư
vào những tài sản phù hợp. Đồ thị 1 cho thấy, khối ngân hàng tư nhân có
tỷ suất sinh lời tốt hơn, đặc biệt là những ngân hàng đẩy mạnh cho vay
tiêu dùng trong những năm gần đây như Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh
Vượng (VPB), Ngân hàng TMCP Quân đội (MBB), hoặc đẩy mạnh cho vay và đầu
tư trái phiếu doanh nghiệp như Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam (TCB).
Xét giá trị tuyệt đối, Ngân hàng
TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCB) được xem là ngân hàng có lợi nhuận đứng
đầu hệ thống, về mặt định giá cũng rất cao, ngay cả khi so với các nước
trong khu vực, nhưng NIM bình quân trong vòng 10 năm lại ở mức thấp.
Điều này dễ hiểu, bởi VCB trước đây
vốn rất mạnh về cho vay doanh nghiệp, nhưng bắt đầu chuyển hướng sang
“mua buôn, bán lẻ” kể từ năm 2012.
Bên cạnh đó, trái phiếu chính phủ và
tài sản có tính thanh khoản cao chiếm tỷ trọng lớn trên tổng tài sản
của Ngân hàng, mà đây là những tài sản có độ an toàn cao nên sức sinh
lời không cao; tỷ trọng cho vay khách hàng/tiền gửi khách hàng của VCB
khoảng 79%, thấp hơn mức trung bình trong nhóm. Như vậy, tạm lấy VCB làm
chuẩn khi ngân hàng này được đánh giá có chất lượng tài sản tốt, cơ cấu
tài chính “khỏe”.
Thông thường, khi tính toán NIM cần
đối chiếu và kết hợp thêm các hệ số khác như cho vay khách hàng/tổng
tiền gửi khách hàng, tỷ trọng tài sản có tính thanh khoản cao và tỷ
trọng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung - dài hạn để hạn chế rủi ro thanh
khoản, rủi ro kỳ hạn. Warren Buffett vốn ưa thích những ngân hàng “bảo
thủ” trong hoạt động kinh doanh và luôn phân bổ ở mức hợp lý để phòng
ngừa rủi ro từ hoạt động và thị trường.
Xét trong bức tranh này, các chỉ tiêu của ACB đều đạt trên mức trung
bình ngành và giữ một cơ cấu khá “bảo thủ”, một mặt đây là chiến lược
nằm trong giá trị cốt lõi của Ban lãnh đạo đề ra, mặt khác Ngân hàng
từng trải qua 2 lần “Stress test” (kiểm tra sức chịu đựng) trong quá khứ
liên quan tới rủi ro thanh khoản và rủi ro hoạt động.
Trong báo cáo tài chính của các ngân
hàng không thuyết minh lĩnh vực cho vay cụ thể đối với đối tượng cá
nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ, điều này gây khó khăn trong việc bóc tách
cụ thể liệu có tồn tại các khoản cho vay bất động sản núp bóng dưới
hình thức cho vay tiêu dùng, vay bù đắp hay không. Thực tế, đa phần các
ngân hàng nhận tài sản bảo đảm là các bất động sản với giá trị lớn hơn
dư nợ cho vay (thường sẽ tài trợ 70% trên giá trị định giá).
Phân tích kỹ ROE và ROA
Vốn chủ sở hữu của các ngân hàng chiếm tỷ trọng phổ biến từ 5 -10%
trong cơ cấu nguồn vốn. Vốn này được xem là “tấm đệm rủi ro”, thường
không trực tiếp tham gia đầu tư vào các tài sản sinh lời, nhưng là căn
cứ của nhiều quy định pháp lý khi tính toán các tỷ lệ đảm bảo an toàn
như hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR), tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung
và dài hạn…
Warren Buffett thường yêu cầu các ngân hàng phải có hệ số sinh lời
trên vốn chủ sở hữu (ROE) từ 12% và lợi nhuận trên tài sản (ROA) từ 1%
trở lên. Nếu lấy số liệu tài chính của Wells Fargo (năm 2018) làm chuẩn
thì nhiều ngân hàng Việt Nam đang có các chỉ số này cao hơn, vì ROA và
ROA của ngân hàng lớn nhất tại Mỹ là 1,2% và 11,53%.
Tuy nhiên, việc so sánh này chỉ để tham khảo, vì chưa xét tới quy mô
và thời gian hoạt động lâu dài cũng như các chỉ tiêu an toàn khác.
Wells Fargo giữ tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản trên mức 10%, cao
hơn các ngân hàng Việt Nam, nhưng có một đặc điểm chung cần xét tới là
các ngân hàng nhận được nhiều vốn huy động từ người dân, đồng thời cho
vay ra thận trọng ở mức thấp so với huy động và không gặp áp lực thanh
khoản thường có tỷ lệ vốn chủ sở hữu/tổng tài sản thấp.
Bởi lẽ, các ngân hàng này không cần tăng vốn hay phát hành nhiều trái
phiếu, nguồn vốn từ nền kinh tế đã khá dồi dào, lượng tiền vay liên
ngân hàng cũng rất thấp.
Chỉ tiêu vốn chủ sở hữu/tổng tài sản
của VCB và ACB ở mức thấp, nhưng lại là hai trong những ngân hàng đạt
chuẩn Basel II sớm nhất theo Thông tư 41/2016/TT-NHNN. Các ngân hàng có
thể “lách” bằng cách phát hành lượng trái phiếu riêng lẻ lô lớn với lãi
suất cao. Việc này giúp cải thiện các chỉ số tài chính, nhưng cũng gây
áp lực về hiệu quả phân bổ vốn.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu sinh lời ROE
và ROA nếu đặt trong mối tương quan với rủi ro tín dụng, một sự dịch
chuyển trong cơ cấu tài sản hoặc danh mục cho vay theo hướng rủi ro hơn
có thể gia tăng những chỉ số này.
Tại ACB, ở thời điểm trước khủng
hoảng năm 2011, tổng tài sản đã đạt mốc 280.000 tỷ đồng (VCB khoảng
367.000 tỷ đồng) và phải tới 7 năm sau, tức năm 2017, Ngân hàng mới lấy
lại mốc tổng tài sản đó, khiến các chỉ tiêu tăng trưởng kép giai đoạn
2008 - 2018 khá khiêm tốn so với các ngân hàng khác.
Xét theo hai giai đoạn, từ năm 2008 -
2011, chi phí dự phòng/lợi nhuận trước dự phòng của ACB chỉ chiếm
khoảng 7%; từ năm 2012 - 2017 bình quân khoảng 42%, đã trích lập đầy đủ
vào năm 2017 và năm 2018 chỉ còn khoảng 12,7%.
Ứng phó tốt với rủi ro
ACB cũng như một số ngân hàng khác đã chủ động trích lập, mua lại nợ
xấu từ Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC)
để tự xử lý. Các tài sản bảo đảm đang trong quá trình xử lý sẽ là “chất
xúc tác” về mặt lợi nhuận trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng đang được
kiểm soát. Ngoài ra, việc đáp ứng sớm các tiêu chuẩn quốc tế cũng là cơ
sở để Ngân hàng Nhà nước “ưu tiên” trong việc nới room tăng trưởng tín
dụng.
Kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm
2019 của ACB cho thấy xu hướng này, khi tăng trưởng tốt về cả thu nhập
lãi thuần, hoạt động dịch vụ và thu nhập khác từ việc xử lý tài sản bảo
đảm, đồng thời giảm mạnh trích lập dự phòng, lợi nhuận sau thuế tăng
17,72% so với cùng kỳ năm 2018.
Về nợ xấu, tăng trưởng tín dụng thường đi kèm với hệ quả nợ xấu tăng
lên là điều khó tránh khỏi. Vấn đề của nợ xấu còn nằm ở sự kiểm soát và
thái độ của ban lãnh đạo ngân hàng có khách quan khi trích lập quỹ dự
phòng cho nợ xấu.
Với Wells Fargo, trong 2 năm 1990 - 1991, ngân hàng này đối mặt với
cuộc suy thoái của thị trường bất động sản và rủi ro vỡ nợ của danh mục
cho vay bất động sản gia tăng. Wells Fargo đã chủ động trích lập khoảng
1,3 tỷ USD (tương đương giá trị sổ sách giảm khoảng 25 USD/cổ phiếu, giá
sổ sách hiện tại là 55 USD/cổ phiếu).
Khi ngân hàng trích lập cho các
khoản nợ xấu thì không có nghĩa là tổn thất đã xảy ra hoặc chắc chắn xảy
ra, đơn giản đó chỉ là khoản dự phòng cho các sự kiện có xác suất sẽ
xảy ra tổn thất cao hơn và theo quy định của luật pháp.
Thực tế, danh mục cho vay của Wells
Fargo tổn thất không nhỏ, nhưng không lớn bằng lượng tiền mà ngân hàng
này đã dự trù sẵn. Đó là tư duy của những nhà quản lý ngân hàng thực sự
khi đối mặt với các rủi ro.
Tư duy phân bổ vốn của Ban lãnh đạo ACB đã được chứng minh trong giai
đoạn 2014 - 2015, Ngân hàng đã chi trên 665 tỷ đồng để mua tổng cộng
hơn 41,4 triệu cổ phiếu quỹ (chiếm 4,41% lượng cổ phiếu lưu hành), với
giá bình quân 16.072 đồng/cổ phiếu; gần đây có quyết định bán ra lượng
cổ phiếu này và dành khoảng 6,2 triệu cổ phiếu để thực hiện chương trình
ESOP.
Nếu tính theo giá thị trường, không tính chia tách cổ phiếu và cổ tức
bằng tiền, thì giá cổ phiếu quỹ của ACB hiện tại khoảng 50.000 đồng/cổ
phiếu, tương đương mức lãi kép 25%/năm.
Điều đáng nói là quyết định mua cổ phiếu quỹ được đưa ra khi ACB vẫn
đang trong giai đoạn khó khăn và là một trong số ít các ngân hàng có tư
duy phân bổ vốn như vậy, vì Ban lãnh đạo nhìn nhận được đúng giá trị
nội tại.
Cái khó là phải phát triển trong thế kiểm soát, việc đầu tiên cần làm
là tập trung vào đào tạo con người - trung tâm của hầu hết các loại rủi
ro. Theo định hướng phát triển của ACB, đây vẫn là giai đoạn đầu tư hợp
tác rất mạnh cho con người và công nghệ.
Đối với nhà đầu tư, trong những năm tiếp theo, việc đầu tư vào công
nghệ, tài sản của ACB sẽ là một luận điểm đánh giá quan trọng về hiệu
quả sinh lời trên vốn chủ sở hữu.
Mẫu số kinh tế của ACB nhiều khả năng sẽ là lợi nhuận trên mỗi khách
hàng - chỉ tiêu hữu hình được coi là phù hợp nhất, thay vì tập trung vào
lợi nhuận trên mỗi nhân viên.
Quan điểm của Ban lãnh đạo ACB là giữ một mức sinh lời bền vững với
ROE khoảng 20% trở lên. Ở điểm này, nhà đầu tư có thể lầm tưởng rằng,
tốc độ tăng lợi nhuận nhanh mới thể hiện sức sinh lời tốt, nhưng tập
trung vào tốc độ thay vì cơ cấu không phải là hướng đi lâu dài.
Xem xét khả năng phân bổ vốn và sinh lời của ACB qua các giai đoạn
cho thấy, Ngân hàng đạt hiệu suất đầu tư tương đối tốt, tạo cơ sở để nhà
đầu tư tiếp tục đào sâu phân tích và kỳ vọng sẽ tiếp tục cải thiện.
Triết gia, chính trị gia người Pháp Lamennais có nói: “Quá khứ không
khác nào cây đèn để nơi ngưỡng cửa tương lai, làm tan bớt một ít bóng
tối bao phủ quanh nó”.
Tóm lại, một cái nhìn thận trọng đối với hoạt động kinh doanh ngân
hàng sẽ làm nổi bật những nhân tố chính, tìm ra ngân hàng có khẩu vị rủi
ro phù hợp với mức sinh lời tương đối là hai yêu cầu quan trọng nhất
khi đầu tư vào ngành ngân hàng.
---